Thực phẩm và đồ uống nên kiêng khi mang thai

184

Một trong những điều đầu tiên các bà bầu cần biết đó chính là những đồ ăn, thức uống không nên ăn, hoặc nên hạn chế.

Hãy chú ý đến chế độ ăn uống khi mang thai để mẹ và thai nhi được khỏe mạnh. Một số loại thực phẩm nên hạn chế, trong khi một số nên tránh xa hoàn toàn.

Dưới đây là 11 loại thực phẩm và đồ uống nên tránh hoặc giảm thiểu khi mang thai.

co bau nen tranh an gi

1. Cá có hàm lượng thủy ngân cao

Thủy ngân là một nguyên tố có độc tính cao, nó không có mức độ phơi nhiễm an toàn và được tìm thấy nhiều nhất ở vùng nước ô nhiễm.

Với lượng cao hơn, nó có thể gây độc cho hệ thần kinh, hệ miễn dịch và thận. Thủy ngân cũng có thể gây ra các vấn đề phát triển nghiêm trọng ở trẻ em với các tác dụng phụ ngay cả ở hàm lượng thấp.

Vì nó được tìm thấy ở các vùng biển ô nhiễm, cá biển lớn có thể tích tụ lượng thủy ngân cao. Vì vậy phụ nữ đang mang thai hoặc cho con bú nên tránh những loại cá có hàm lượng thủy ngân cao.

Các loại cá có hàm lượng thủy ngân cao bao gồm:

  • Cá kiếm: 0,995 ppm
  • Cá mập: 0,979 ppm
  • Cá thu vua: 0,730 ppm
  • Cá ngừ mắt to: 0,689 ppm
  • Cá ngừ đóng hộp: 0,128 ppm
  • Marlin: 0,485 ppm

Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là không phải tất cả các loại cá đều chứa thủy ngân.

Tiêu thụ cá có hàm lượng thủy ngân thấp trong thời kỳ mang thai rất tốt cho sức khỏe và có thể ăn những loại cá này 3 lẫn mỗi tuần.

Các loại cá có hàm lượng thủy ngân rất thấp bạn có thể tham khảo bao gồm:

  • Cá cơm
  • Cá tuyết
  • Cá bơn
  • Cá tuyết chấm đen
  • Cá hồi
  • Cá rô phi
  • Cá hồi nước ngọt

Cá béo như cá hồi, cá cơm là những lựa chọn đặc biệt tốt cho sức khỏe của phụ nữ mang thai vì chúng chứa nhiều axit béo omega-3, rất quan trọng cho em bé.

2. Cá sống hoặc nấu chưa chín

Cá sống và các động vật có vỏ có thể gây ra một số bệnh nhiễm trùng, có thể là nhiễm trùng do virus, vi khuẩn hoặc ký sinh trùng như norovirus, Vibrio, Salmonella và Listeria.

Một số bệnh nhiễm trùng này có thể chỉ ảnh hưởng đến bà mẹ, gây mất nước và suy nhược. Các bệnh nhiễm trùng khác có thể truyền sang em bé với hậu quả nghiêm trọng hoặc thậm chí gây tử vong.

Phụ nữ mang thai đặc biệt dễ bị nhiễm khuẩn listeria. Trên thực tế, theo CDC Hoa Kỳ, phụ nữ mang thai có nguy cơ nhiễm vi khuẩn listeria cao gấp 10 lần người bình thường.

Vi khuẩn này có thể được tìm thấy trong đất, nước bị ô nhiễm hoặc thực vật. Cá sống có thể bị nhiễm bệnh trong quá trình chế biến bao gồm cả hun khói và sấy khô.

Vi khuẩn Listeria có thể lây truyền sang em bé qua nhau thai, ngay cả khi người mẹ không có bất kỳ dấu hiệu bệnh nào. Điều này có thể dẫn tới sinh non, sảy thai, thai lưu và các vấn đề nghiêm trọng khác về sức khỏe.

Nhìn chung, phụ nữ mang thai nên tránh ăn các thực phẩm làm từ cá sống và động vật có vỏ, bao gồm nhiều món sushi.

3. Thịt chưa được nấu chín, thịt sống hoặc thịt đã qua chế biến

Một số vấn đề tương tự với cá sống cũng ảnh hưởng đến thịt nấu chưa chín. Ăn thịt sống hoặc nấu chưa chín làm tăng nguy cơ nhiễm một số vi khuẩn hoặc ký sinh trùng như Toxoplasma, E. coli, Listeria và Salmonella.

Vi khuẩn có thể đe dọa đến sức khỏe của em bé, có thể dẫn tới thai lưu hoặc các bệnh về thần kinh nghiêm trọng bao gồm khuyết tật trí tuệ, mù lòa và động kinh.

Trong khi hầu hết các vi khuẩn được tìm thấy trên bề mặt của thịt, các vi khuẩn khác cũng có thể tồn tại bên trong các thớ cơ.

Một số phần thịt nguyên miếng như thịt thăn, ribeye từ thịt bò, thịt cừu, thịt bê có thể an toàn để ăn khi chưa nấu chín kỹ. Tuy nhiên điều này chỉ áp dụng khi miếng thịt còn nguyên, chưa cắt và bên ngoài mặt đã chín hoàn toàn.

Xúc xích, thịt nguội có thể bị nhiễm nhiều loại vi khuẩn khác nhau trong quá trình chế biến và bảo quản.

Phụ nữ mang thai không nên tiêu thụ các sản phẩm thịt đã qua chế biến.

4. Trứng sống

Trứng sống có thể bị nhiễm vi khuẩn Salmonella. Các triệu chứng của nhiễm khuẩn salmonella bao gồm sốt, buồn nôn, co thắt dạ dày và tiêu chảy. Trong một số ít trường hợp, nhiễm trùng có thể gây co thắt ở tử cung dẫn tới sinh non hoặc thai chết lưu.

Các thực phẩm từ trứng sống có thể bao gồm:

  • Trứng chần
  • Sốt Hollandaise
  • Scrambled Egg
  • Sốt mayonsaise làm tại nhà
  • Một số nước sốt salad tự làm
  • Kem và bánh kem làm tại nhà

Hầu hết các sản phẩm thương mại có chứa trứng sống đều được làm bằng trứng đã được tiệt trùng và an toàn để tiêu thụ, tuy nhiên nên đọc nhãn để đảm bảo an toàn.

Hãy luôn nấu chín trứng kỹ hoặc sử dụng trứng đã qua tiệt trùng.

5. Thịt nội tạng

Nội tạng động vật là một nguồn dinh dưỡng tuyệt vời. Chúng bao gồm sắt, vitamin B12, Vitamin A, kẽm, selen và đồng – tất cả đều tốt cho mẹ và bé. Tuy nhiên việc ăn quá nhiều vitamin A gốc động vật không được khuyến khích trong thai kỳ.

Tiêu thụ quá nhiều vitamin A đã được tạo sẵn đặc biệt là trong ba tháng đầu của thai kỳ có thể dẫn đến dị tật bẩm sinh và sảy thai.

Dù điều này có liên quan tới các chất bổ sung vitamin A, tốt nhất nên giữ mức độ tiêu thụ các loại nội tạng động vật ở mức vài ounce mỗi tuần.

6. Caffein

Theo Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG), những người mang thai thường được khuyến cáo nên hạn chế lượng caffein của họ dưới mức 200 mg mỗi ngày.

Caffein được hấp thụ rất nhanh và dễ dàng đi qua nhau thai. Vì trẻ sơ sinh và nhau thai của chúng không có enzym chính cần thiết để chuyển hóa caffein nên có thể gây tích tụ nồng độ cao.

Uống nhiều cafein trong thai kỳ đã được chứng minh có thể gây hạn chế sự phát triển của thai nhi và làm tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân.

Trẻ sơ sinh nhẹ cân (dưới 2,5kg) tăng rủi ro gây tử vong ở trẻ sơ sinh và có nguy cơ mắc các bệnh mãn tính cao hơn khi trưởng thành.

7. Rau mầm sống

Các loại rau mầm sống như cỏ linh lăng, cỏ ba lá, củ cải, giá đỗ xanh có thể bị nhiễm vi khuẩn Salmonella.

môi trường ẩm ướt cần thiết để hạt bắt đầu nảy mầm là nơi lý tưởng cho các loại vi khuẩn và chúng hầu như không thể bị rửa trôi.

Vì vậy nên tránh hoàn toàn các loại rau mầm sống mà nên nấu chín chúng để sử dụng an toàn.

8. Trái cây chưa gọt rửa hoặc gọt vỏ

Bề mặt của trái cây và rau quả chưa rửa hoặc chưa gọt vỏ có thể bị nhiễm một số vi khuẩn và ký sinh trùng bao gồm Toxoplasma, E. coli, Salmonella và Listeria từ đất hoặc qua xử lý.

Sự ô nhiễm có thể xảy ra bất cứ khi nào trong quá trình sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản và vận chuyển, bán lẻ. Một loại ký sinh trùng nguy hiểm có thể tổn tại trên trái cây và rau quả được gọi là Toxoplasma.

Phần người người bị nhiễm toxoplasma không có triệu chứng, trong khi những người khác có thể cảm thấy như bị cúm kéo dài cả tháng trời hoặc hơn.

Hầu hết trẻ sơ sinh bị nhiễm vi khuẩn toxoplasma khi còn trong bụng mẹ đều không có triệu chứng khi sinh ra, tuy nhiên các triệu chứng như mù hoặc thiểu năng trí tuệ có thể phát triển sau này.

Ngoài ra, một tỷ lệ nhỏ trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh bị tổn thương mắt hoặc não nghiêm trọng khi sinh ra.

9. Sữa, phomai và nước ép trái cây chưa tiệt trùng

sữa tươi, phomai chưa được tiệt trùng có thể chứa một loại các vi khuẩn có hại như Listeria, Salmonella, E. coli và Campylobacter.

tương tự, nước ép trái cây chưa tiệt trùng cũng có thể bị nhiễm vi khuẩn. Tất cả các bệnh nhiễm trùng này đều đe dọa tới thai nhi.

Vi khuẩn có thể xuất hiện tự nhiên hoặc do nhiễm bẩn trong quá trình thu gom hoặc bảo quản. Thanh trùng là cách hiệu quả nhất để tiêu diệt vi khuẩn có hại mà không làm mất đi giá trị dinh dưỡng của thực phẩm.

10. Rượu

Phụ nữ mang thai nên tránh hoàn toàn việc uống rượu vì nó làm tăng nguy cơ sảy thai, thai lưu. Ngay cả một lượng nhỏ rượu cũng tác động tiêu cực đến việc phát triển não của em bé.

Uống rượu khi mang thai cũng có thể gây ra các hội chứng ở thai nhi như dị dạng khuôn mặt, dị tật tim và thiểu năng trí tuệ.

11. Các đồ ăn đã qua chế biến

Không có thời điểm nào tốt hơn khi mang thai để bắt đầu một chế độ ăn giàu dinh dưỡng tốt cho cả mẹ và bé. Phụ nữ mang thai sẽ cần bổ sung nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu bao gồm protein, folate, choline và sắt.

Các mẹ bầu nên ăn bình thường trong kỳ đầu tiên, sau đó tăng khoảng 350 calo mỗi ngày trong tam cá nguyệt thứ hai và khoảng 450 calo mỗi ngày trong tam cá nguyệt thứ ba.

Một kế hoạch ăn uống tối ưu khi mang thai nên bao gồm các loại thực phẩm toàn phần, giàu dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu của mẹ và em bé. Đồ ăn vặt đã qua chế biến thường ít chất dinh dưỡng, nhiều calo, đường và chất béo bổ sung.

Trong khi tăng cân là một điều thường thấy trong thai kỳ nhưng tăng cân quá mức có thể liên quan tới nhiều biến chứng và bệnh tật, chúng bao gồm nguy cơ tiểu đường cũng như các biến chứng khi mang thai hoặc sinh nở.

Bám sát vào các bữa ăn chính và độ ăn nhẹ tập trung vào protein, rau và trái cây, chất béo lành mạnh, carbohydrate giàu chất xơ như ngũ cốc nguyên hạt, đậu và rau giàu tinh bột sẽ giúp mẹ và bé luôn được khỏe mạnh.